Ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam, đám cưới luôn là dịp
quan trọng trong cuộc đời. Các trình tự cũng như thủ tục cưới hỏi sẽ có
nhiều đặc trưng riêng biệt, mang đậm phong tục từng miền.
Ở các tỉnh, thành phố phía Bắc, các gia đình thường tổ
chức lễ cưới theo 3 bước chính gồm dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu, một số nhà
còn có lễ lại mặt, là hình thức hai vợ chồng trở về nhà gái cúng gia
tiên sau khi lễ đón dâu đã hoàn tất. Người Bắc có tục thách cưới, nhà
gái sẽ được yêu cầu nhà trai chuẩn bị những đồ lễ nhất định. Trong số đồ
lễ của của người Bắc nhất định phải có trầu cau, bánh cốm.
Các quy định cưới hỏi ở miền Bắc là nghiêm ngặt nhất
trong số 3 miền, ngày giờ tốt phải được chọn kỹ lưỡng, các tráp ăn hỏi
cũng phải chuẩn bị đầy đủ, phải là số lẻ và lễ ăn hỏi phải diễn ra trước
đám cưới ít nhất một tuần tới 10 ngày. Trước kia, lễ ăn hỏi và lễ cưới
không được diễn ra trong cùng một ngày, để hai nhà có thời gian chuẩn bị
tiệc và mời khách chu đáo. Lễ đón dâu của người miền Bắc xưa có rất
nhiều thủ tục, đi đầu đám rước phải là những người giàu sang, có địa vị
trong dòng họ.
Miền Trung:
Người miền Trung, mà cụ thể là tại cố đô Huế có tục
cưới xin đơn giản, tiết kiệm, trọng lễ nghi, không trọng tiền bạc. Người
Huế cũng có các bước như dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu nhưng ý nghĩa có khác
đôi chút so với miền Bắc. Để chuẩn bị cho đám hỏi, đám cưới, người Huế
thường lên chùa nhờ các vị cao tăng xem ngày, giờ tốt. Sau khi đã chọn
giờ ưng ý, hai bên thông gia sẽ thông báo cho nhau bằng một cuộc thăm
hỏi (dạm ngõ) đơn giản. Thậm chí, tại nhiều vùng, việc dạm ngõ có thể do
hai bạn trẻ đứng ra tiến hành nếu hai gia đình đã quen thân nhau từ
trước.
Đám ăn hỏi của người Huế được xem như buổi gặp mặt lớn
của hai họ, không tổ chức rầm rộ. Đám cưới Huế có các lễ như xin giờ,
nghinh hôn, bái tơ hồng, rước dâu diễn ra ở nhà gái, đón dâu, lễ gia
tiên ở nhà trai. Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong đám
cưới có thể gồm trầu cau, rượu trà, nến, bánh phu thê. Ngoài ra, đám
cưới ở Huế luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ, một bé trai, một bé
gái rước đèn đi trước.
Trong đêm tân hôn, đôi uyên ương phải làm lễ giao bôi
hợp cẩn. Người Huế có tập tục để trong phòng tân hôn một khay lễ với 12
miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Cặp vợ chồng mới cưới phải
nhai hết 12 miếng trầu, tượng trưng cho 12 tháng hòa hợp trong năm, 12
năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc ăn muối, ăn gừng mang
màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm.
Lễ cưới ở Huế khá cầu kỳ về nghi thức, nhưng cũng rất
đơn giản, không tổ chức ồn ào, khoa trương trong tất cả các nghi lễ. Đặc
biệt, việc hợp tuổi hợp mệnh là vấn đề được quan tâm nhất trong lễ cưới
tại Huế. Ví dụ, khi đi may áo cưới, áo dài, phải chọn ngày giờ tốt,
người thợ may phải là người có cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc.
Miền Nam:
Người dân phía Nam thường có lối suy nghĩ phóng
khoáng, vì thế, nhưng phong tục cưới hỏi của họ cũng có phần thoải mái,
giảm nhẹ hơn. Lễ cưới tại miền Nam vẫn có đủ 3 nghi thức là dạm ngõ, ăn
hỏi, đón dâu. Nhưng không như miền Bắc, người miền Nam có thể bỏ qua lễ
dạm ngõ mà tiến hành lễ ăn hỏi và đón dâu cùng một ngày nếu gia đình một
trong hai nhà ở xa, đi lại vất vả. Khi gộp hai lễ này, tráp ăn hỏi và
lễ vật cúng tổ tiên khi đón dâu sẽ được gộp lại.
Tuy nhiên, có một nghi lễ bắt buộc cần có trong đám
cưới miền Nam, đó là lễ lên đèn. Nhà trai sẽ phải mang hai ngọn nến cỡ
lớn đến nhà gái khi đón dâu. Khi tiến hành cúng gia tiên tại nhà gái, cô
dâu và chú rể phải tự tay thắp nến để lên bàn thờ, đó giống như tuyên
bố chính thức, gắn kết hai người bên nhau trọn đời.
Nhưng dù khác nhau về phong tục, quan niệm trong cưới
hỏi, các gia đình đều mong muốn những phong tục đó sẽ đem đến cuộc sống
hạnh phúc lâu bền cho đôi uyên ương và giúp cuộc sống sau này của họ
được thuận buồm xuôi gió.
Theo: Ngoisao