Cô dâu miền Trung cũng mặc áo mớ ba, trong cùng là áo màu đỏ hoặc hồng điều, áo giữa bằng the hay vân tha màu xanh chàm, áo ngoài cùng bằng the hay vân tha màu đen. Có người chỉ mặc lồng hai áo, trong cùng là áo màu đỏ hoặc hồng điều, ngoài là vân thưa màu xanh chàm để tạo nên hiệu quả một màu tím đặc biệt nền nã. Mặc quần trắng, đi hài thêu. Tóc chải lật, búi sau gáy. Cổ đeo kiềng hoặc quấn chuỗi hột vàng cao lên quanh cổ. Cổ tay đeo vòng vàng, xuyến vàng...
Nhắc đến trang phục của cô dâu miền Nam, ấn tượng đáng nhớ nhất bao giờ cũng là bộ áo dài gấm, quần lĩnh đen, đi hài thêu. Tóc chải lật, búi lại và cuốn ba vòng phía sau đầu, gài lược “bánh lái” bằng đồi mồi hoặc bằng vàng, bạc. Có người cài trâm vàng, đầu trâm có đính lò xo nhỏ nối tiếp với một con bướm bằng vàng hay bạc tạo nên một độ rung, tăng thêm nhiều phần sinh động và thẩm mỹ. Ðeo dây chuyền nách (xà nách) bằng vàng, đeo nhiều chuỗi hột vàng ở cổ...
Trang phục của chú rể ở cả ba miền đều giống nhau, thường thì mặc áo thụng bằng gấm hay the màu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiều màu lam. Chân đi văn hài thêu đẹp.
Những năm 1920 - 1930, ở thành thị miền Bắc, cô dâu mặc áo dài cài vạt. Ngoài là chiếc áo the thâm, bên trong, áo màu hồng hay xanh... hoặc ngoài là chiếc áo dài sa tanh đen, bên trong, áo dài lụa trắng Cổ Ðô. Mặc quần lĩnh hay sa tanh đen. Chân đi văn hài thêu hạt cờm hay đôi guốc cong. Vấn khăn nhung đen, đeo hoa tai bèo, cổ đeo nhiều vòng chuỗi hột bằng vàng. Chú rể mặc áo the thâm, trên nền áo dài trắng bên trong. Quần trắng ống sớ, đi giày Gia Ðịnh. Ðội khăn xếp. Khi lễ tơ hồng, lễ nhà thờ thì khoác áo thụng lam.
Vài năm sau đó, các cô dâu con nhà giàu mặc áo thụng bằng gấm màu đỏ hoặc màu vàng... có hoạ tiết rồng phượng, cánh tay áo dài và rộng. Mặc quần trắng, đi giày vân hài bằng nhung màu đỏ hoặc màu vàng hay lam có thêu rồng, phượng bằng hạt cườm hay chỉ kim tuyến lóng lánh. Ðầu đội khăn vành dây bằng nhiễu, màu lam hay vàng quấn nhiều vòng quanh đầu. Trang phục như trên thường được coi là kiểu “hoàng hậu” và nó phổ biến từ miền Trung ra tới miền Bắc. Có cô dâu mặc áo dài bằng dải mình khô hoa ớt hoặc gấm hoa, sa tanh, hay nhung đỏ... mặc quần lụa trắng. Vấn khăn vành dây, cổ đeo kiềng hay dây chuyền. Tay đeo xuyến, vòng.
Về sau này, do những thay đổi về xã hội, văn hoá phương Tây du nhập vào Việt Nam đã tạo nên những biến đổi trong lối sống của người Việt. Nói về trang phục và trang sức cũng như trang điểm, ở miền Bắc đã tiếp thu một số hình thức trang điểm của châu Âu: Cô dâu trang điểm son phấn, cài thêm bông hoa hồng trắng bằng voan ở ngực trái, tay ôm bó hoa lay ơn trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, đồng thời làm đẹp cho bộ trăng phục ngày cưới. Mặt khác cũng để đôi tay đỡ ngượng nghịu hơn. Ðó là trang phục của cô dâu, còn phần trang phục của chú rể thì đơn giản hơn, chỉ mặc com-lê, thắt cra-vát hay cài nơ ở cổ đi giày da. Ở ngoại thành, cô dâu mặc theo lối cổ truyền ái dài cài cúc, quần lĩnh đen. Chú rể mặc áo the, quần trắng, đội khăn xếp.
Từ năm 1954, nhiều nghi thức, trang phục lễ cưới được lược bỏ. Ở thành thị, cô dâu mặc áo dài màu trắng hoặc các màu sáng, nhạt, mặc quần trắng, đi giày cao gót, tay ôm hoa lay ơn, tóc phi dê hoặc chải bồng, cặp tóc. Trang điểm má hồng, môi son. Chú rể mặc com lê, thắt cravat, đi giày. Còn ở nông thôn, cô dâu thưòng mặc áo sơ mi trắng hoặc áo cánh trắng hay áo bà ba, quần đen, đi dép mới. Chú rể mặc áo sơ mi mới, quần Âu, đi giày, xăng đan hoặc dép nhựa. Bộ đội vẫn có thể mặc bộ quân phục, cán bộ thì mặc quần áo đại cán mới, tóc chải gọn gàng.
Ngay từ xưa, các cô dâu đã ý thức được việc làm đẹp trong ngày cưới. Trang phục cưới chính là phần được coi trọng nhiều nhất. Trải qua những diễn biến lịch sử, trang phục cưới có nhiều thay đổi. Nhưng nhìn chung, những trang phục cưới của những năm trước năm 54 đều ít nhiều vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống Á Ðông, những nét đẹp chưa bị ảnh hưởng nhiều của văn hoá phương Tây.