Nếu như bộ ba mái đình, cây đa đầu làng, bến nước (giếng nước) là biểu tượng của xóm làng cổ kính thì cây đa giữa đàng lại là chốn linh thiêng tịch mịch. Quanh gốc cây đa ấy, người ta đếm có đến hàng chục chiếc bình vôi cũ kỹ, miệng bị vôi che lấp kín, được đặt chi chít ở nhiều tư thế khác nhau. Xen lẫn giữa chúng là một ngôi miếu thờ phủ màu cát bụi. Đấy không phải những chiếc bình vôi bình thường, mà là các “ông bình vôi” được thần bí hóa. Và những ngôi miếu lô nhô kia là để thờ các “cô hồn”, thờ những người chết bất đắc kỳ tử, chết bờ chết bụi mà không ai thờ phượng, và đồng thời còn để thờ những “Ông bình vôi”. Chất thần bí của cây đa giữa đàng càng rõ nét hơn vào đêm trăng sáng, khi những tia sáng lập lòe trong những chùm lá non chiếu xuống mặt đường, gió xa về đung đưa những cành cây kẽo kè kẽo kẹt, cứ như có ai đang đánh võng ru con.
Câu chuyện về ông bình vôi thường gắn liền với gốc đa đầu làng |
Nguồn gốc xuất hiện của những “ông bình vôi” gắn liền với tục ăn trầu cau |
Không chỉ người Việt Nam mà người Khách
Gia (Nam Trung Hoa), người Đài Loan và một số dân tộc Đông Nam Á cũng
ăn trầu cau, chỉ có điều, ở Trung Hoa và Đài Loan thì chỉ có người đàn
ông mới ăn trầu. Chất mằn mặn, hăng hăng của trầu, cau và vôi vừa giúp
cân bằng sức khỏe, vừa tạo một xung lực đặc biệt để buổi chuyện trò thêm
rôm rả hơn.
Người dân Bắc Bộ có thơ:
"Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh."
Còn người Trung Bộ thì ngân nga:
"Bồng em mà bỏ vô nôi,
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An."
Khi
muốn ăn trầu, các bà phải têm trầu cau với vôi ở một tỷ lệ phù hợp. Khổ
nỗi, khi lấy vôi ra khỏi bình thường là lượng vôi nhiều hơn mức cần
thiết nên các bà thường quẹt vôi lại ở miệng bình. Đến một lúc nào đó,
miệng bình vôi bị mặt vôi khô cứng bịt kín. Đó là lúc chiếc bình vôi
thành “ông bình vôi”, tức đã “có thần”, đã thành “thần bình vôi”. Dân
gian không bao giờ vứt bình đi mà phải trân trọng mang ra đặt thờ ở gốc
đa đầu làng. Bình vôi ở Việt Nam được làm ra để phục vụ các bà nên khi
thành thần, phải là “ông bình vôi”. Âu cũng là một thể hiện của triết lý
âm dương vậy.
Chiếc bình vôi còn được hiểu là bảo bối chứa đựng quyền lực nội trợ của người phụ nữ |
Chiếc bình vôi còn được hiểu là bảo bối
chứa đựng quyền lực nội trợ của người phụ nữ, do vậy ở một số gia đình,
khi người con trai đi lấy vợ, người mẹ ôm bình vôi sang giấu ở nhà hàng
xóm. Bà lưu luyến vị trí nội trợ chính của mình, bởi từ lúc đó trở đi
đã phải có một người phụ nữ khác “cạnh tranh” với bà.
Lần
sau có rẻo bước lãng du vào thế giới thôn làng cổ kính, hãy dành một
phút điềm tĩnh để cảm thụ nét gần gũi song lại rất linh thiêng của những
“ông bình vôi” chen chút, lầm lũi dưới gốc đa ven đường bạn nhé!
Minh Khang
Ảnh minh họa: Internet