Nếu lúc trước còn có lễ Gia Quan tức là đội khăn cho người con trai được 20 tuổi (ta) để chứng tỏ người đó trưởng thành, có thể làm trụ cột cho gia đình thì ngày nay, hôn lễ dường như gánh luôn phần ý nghĩa cho lễ Gia Quan. Xét trong ba miền, nghi thức, phong tục cưới có nhiều đổi khác khi đi từ Bắc vào Nam.
Tục cưới miền Bắc
Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc,
nghi thức, nghi lễ cưới ở Hà Nội so với các vùng khác quy định nghiêm
ngặt hơn. Ít nhất phải giữ 3 lễ Chạm ngõ, Lễ hỏi và Rước dâu.
Chạm ngõ là lễ tiếp xúc đầu tiên, chính
thức của hai gia đình nhà trai và nhà gái. Ngày nay, những gia đình ở Hà
Nội vẫn giữ nguyên nếp xưa, lễ chạm ngõ vẫn được xem là thủ tục cần
thiết, để giữa hai gia đình, "chỗ người lớn" thưa chuyện với nhau. Sau
lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi. Dù là tầng lớp nào thì cũng không thể
thiếu được cơi trầu.
Mâm quả của người miền Bắc khá cầu kỳ. |
Một lễ ăn hỏi của người Hà Nội thì không
thể thiếu cốm và hồng. Nếu gia đình khá giả thì ngoài cốm - hồng và trầu
cau còn có thêm lợn sữa quay. Ðồ lễ ăn hỏi gắn liền với đặc sản của
vùng đất Hà Thành, gồm có: bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu,
trầu cau, thuốc lá... Dù lễ vật nhiều, ít nhưng không thể thiếu bánh "su
sê", ngày xưa gọi là bánh "phu thê", một số địa phương gọi chệch ra là
bánh "su sê" là biểu tượng của đôi vợ chồng duyên phận vẹn toàn. Ngày
giờ tốt cho lễ hỏi phải được chọn kỹ lưỡng, các tráp ăn hỏi cũng phải
chuẩn bị đầy đủ, phải là số lẻ và lễ ăn hỏi phải diễn ra trước đám cưới
ít nhất một tuần tới 10 ngày.
Lễ rước
dâu ngày xưa có rất nhiều thủ tục, đi đầu đám rước là những người giàu
có địa vị trong làng xã, khi đón dâu ra đến đầu làng còn có lễ chăng
dây, đầu làng hoặc đầu phố (lễ chăng dây đến đầu thế kỷ XX vẫn còn),
muốn đi qua phải đưa một ít tiền. Ăn uống, tiệc tùng diễn ra trước ngày
cưới 1 ngày (bây giờ thường tổ chức ngày trong ngày cưới). Trong khi đón
dâu, cô dâu chú rể phải làm lễ gia tiên, lễ này như một sự tưởng nhớ
đến cội nguồn, tổ tiên.
Lễ cưới miền Trung
Người miền Trung, mà cụ thể là tại cố đô
Huế có tục cưới xin đơn giản, tiết kiệm, trọng lễ nghi, không trọng
tiền bạc. Người Huế cũng có các bước như dạm ngõ, ăn hỏi, đón dâu nhưng ý
nghĩa có khác đôi chút so với miền Bắc.
Chuẩn bị lễ hỏi, lễ cưới, người Huế
thường xem ngày giờ tốt xấu, có khi lên chùa thỉnh ý các cao tăng. Sau
khi chọn ngày giờ, hai bên thông gia sẽ báo cho nhau bằng một cuộc thăm
đơn giản.Ðám cưới Huế có các lễ: xin giờ, nghinh hôn, bái tơ hồng, rước
dâu diễn ra ở nhà gái, và đón dâu, trình báo gia tiên ở nhà trai.
Người Huế không có tục thách cưới, lễ
vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ
hồng, bánh phu thê. Nếu khá giả, nhà trai có thể thêm bánh kem, bánh
dẻo; không có "lợn quay đi lộng" như nhiều nơi. Ngoài ra, đám cưới ở Huế
luôn có phù dâu, phù rể và hai đứa trẻ rước đèn đi trước. Hai đứa trẻ
thường là 1 trai 1 gái, tuổi tương đương cầm lồng đèn hay cầm hoa. Trong
đêm tân hôn, đôi bạn trẻ phải làm lễ giao bôi hợp cẩn.
Người Huế có tập tục để trong phòng hoa
chúc một khay lễ với 12 miếng trầu, đĩa muối, gừng và rượu giao bôi. Ðôi
bạn trẻ phải nhai hết 12 miếng trầu ấy, tượng trưng cho 12 tháng hòa
hợp trong một năm, 12 năm hòa hợp tuần hoàn trong một giáp âm lịch. Việc
ăn muối ăn gừng mang màu sắc dân gian, biểu tượng nghĩa tình nồng thắm.
Khi đưa dâu, thông thường bố mẹ cô gái
sẽ không theo xe, mà hôm sau mới sang nhà trai, với ý nghĩa xem cô con
gái ngày đầu về làm dâu có làm điều gì phật lòng nhà chồng không. Buổi
gặp này, hai bên thông gia đối đáp những câu khách sáo, nhắn gửi con cái
cho nhau, và căn dặn con mình phải thuận thảo với gia đình bên vợ hoặc
bên chồng.
Người Huế không có tục thách cưới, lễ vật trong lễ cưới tối thiểu chỉ gồm có mâm trầu cau, rượu trà, nến tơ hồng, bánh phu thê. |
Ðặc biệt, quan hệ tuổi mạng rất được coi
trọng ở đám cưới Huế. Theo TS Tôn Thất Bình: vị chủ hôn thường là vị
cao niên trong dòng tộc hai bên, thân thuộc với gia đình, vợ con đầy đủ,
không tật bệnh, tuổi không khắc kỵ đôi tân hôn. Những nhân vật khác
trong đám cưới từ người may áo cưới, người sắp xếp phòng cho đêm tân
hôn, người đóng vai trò tổ chức đều được lựa chọn kỹ càng. Những người
này đều phải có gia đình hòa thuận, con cái đề huề.
Đám cưới miền Nam
Người dân phía Nam thường có lối suy
nghĩ phóng khoáng, vì thế phong tục cưới hỏi của họ cũng có phần thoải
mái, giảm nhẹ hơn. Lễ cưới tại miền Nam vẫn có đủ 3 nghi thức là dạm
ngõ, ăn hỏi, đón dâu. Nhưng không như miền Bắc, người miền Nam có thể bỏ
qua lễ dạm ngõ mà tiến hành lễ ăn hỏi và đón dâu cùng một ngày.
Tuy nhiên, có một nghi lễ bắt buộc cần
có trong đám cưới miền Nam, đó là lễ lên đèn. Vị trí buổi lễ là khu vực
thờ tổ tiên, trong nhà, trang trí tùy theo gia đình, phải có đủ "hương
đăng hoa quả". Họ hàng đàng trai đến, có người làm mai đi đầu. Phẩm vật
đưa đến, ngoài trái cây, bánh kẹo, phải có trầu cau. Đại diện nhà trai
đến, kính cẩn mời đàng gái uống trà, rượu, và mời ăn trầu. Hai bên bàn
bạc với nhau vài chi tiết, tặng nữ trang, tiền mặt, không mất thì giờ vì
đã thỏa thuận với nhau từ trước rồi. Xong xuôi, người trưởng tộc của
đàng gái tuyên bố: "Xin làm lễ lên đèn"
Phong tục cưới hỏi của miền Nam có phần thoải mái, giảm nhẹ hơn |
Lên đèn là nghi lễ quan trọng và thiêng
liêng nhất. Hai ngọn nến to, do đàng trai đem đến được đặt trên bàn thờ
ông bà. Người trưởng tộc bèn khui một chai rượu, trong số hai chai do
đàng trai đem đến. Rồi thì ông đứng trước bàn thờ ngay chính giữa, cô
dâu và chú rể đứng hai bên, im lặng.
Hai ngọn đèn được đốt lên, từ ngọn lửa
của cái đèn trứng vịt nhỏ của bàn thờ (hiểu là lửa hương hỏa). Hai ngọn
đèn cháy từ từ, đặt sát nhau vì người làm lễ đang áp vào hai tay, như
khấn vái. Khi lửa cháy đều ngọn, ông này từ từ giang cánh tay ra trao
cho hai người trợ lý mỗi bên một ngọn để cắm vào chân đèn.
Ngọn đèn phải cháy thong dong, đều đặn,
nếu bên cao bên thấp thì sẽ có dư luận chàng rể sợ vợ, cô dâu sẽ lấn
hiếp chồng. Ðề phòng nến tắt, nhiều người đóng cửa sổ thật kỹ, sợ gió
tạt hoặc tạm thời tắt quạt máy. Ngày nay, đèn chế biến bằng hóa chất,
không làm bằng sáp ong như xưa nên dễ tắt bất ngờ.
“Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lễ lên đèn theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên đèn là đủ rồi.” – dẫn theo nhà Nam bộ học Sơn Nam.
“Trong lúc lên đèn, có sự tôn nghiêm kỳ lạ. Lửa là sự sống, là niềm lạc quan. Lửa nối quá khứ, nối tổ tiên đến hiện tại. Lửa nối mặt đất lên trời. Lửa dịp lễ hội ở đình làng, với đèn. Lễ lên đèn theo tôi là lễ quan trọng, bắt buộc phải có ở mọi hôn lễ từ xưa đến nay. Lên đèn là đủ rồi.” – dẫn theo nhà Nam bộ học Sơn Nam.