Tự ngàn xưa
Trong sách Lĩnh Nam
Chích Quái (sách chép những chuyện huyền hoặc, quái dị trong nước từ xưa
đến nay, căn cứ vào lời kể của dân gian và chỉ được phổ biến trong từng
địa phương) có ghi lại sự tích Trầu Cau như sau:
Vào thời xa xưa, có
hai anh em nhà họ Cao, một người tên Tân, một người tên Lang (tân lang
có nghĩa là cây cau) rất mực thương yêu nhau. Khi cha mẹ qua đời, hai
anh em đến trọ học nhà ông thầy họ Lưu. Thấy Tân và Lang vừa học giỏi,
vừa đẹp người đẹp nết, ông thầy yêu quí như con. Cô con gái của thầy
cũng đem lòng quyến luyến, muốn chọn người anh làm chồng. Hai anh em Tân
và Lang sát tuổi nhau, dung mạo lại giống nhau như khuôn đúc, cô gái
không sao đoán được ai là anh, ai là em. Nhân dịp biếu cháo, cô cố ý chỉ
đưa tới một bát cháo với một đôi đũa rồi để ý, thấy Lang cung kính mời
Tân ăn trước cô mới biết Tân là anh, và xin cha được gá nghĩa cùng
chàng.
Vợ chồng Tân và Xuân
Phù (tên cô gái, xuân phù có nghĩa là trầu không mùa xuân) sống rất hạnh
phúc. Hai anh em Tân và Lang vẫn ở bên nhau, nhưng Lang nhận thấy từ
ngày anh có vợ, tình anh đối với mình không còn quyến luyến như xưa,
trong khi ấy người anh vô tình không hề hay biết. Ðã thế lại xảy ra
chuyện hiểu lầm. Một hôm hai anh em đi làm đồng về muộn, Lang về trước,
nàng Lưu tưởng chồng, chạy ra vồn vã âu yếm. Lang vội lên tiếng, cả hai
đều biết là nhầm nên rất ngượng. Tân về, biết chuyện để dạ nghi ngờ, từ
đó tỏ ra lạnh nhạt với em hơn.
Lang buồn tủi âm thầm
bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang trong rừng cho tới khi kiệt sức, chết đi
hóa thân thành cây cau bên bờ suối vắng.
Thấy em không về, Tân
ân hận, xót xa, lặng lẽ lên đường tìm em. Tân cũng đã tới bờ suối nọ,
ngồi bên cây cau than khóc. Khi thân xác rũ liệt, chàng chết hóa thân
thành tảng đá vôi, nằm sát bên gốc cau. Người vợ chờ chồng mãi chẳng
thấy trở về, quá nhớ thương nên đi tìm. Nàng cũng tới bờ suối. Nàng ngồi
trên tảng đá khóc miết... đến khi hồn lìa khỏi xác thì hóa thân thành
cây trầu không, leo bám trên thân đá. Gia đình họ Lưu đi tìm con, được
biết chuyện bèn lập miếu thờ. Người đương thời rất cảm kích trước tình
anh em khăng khít, tình vợ chồng thắm thiết, thủy chung của anh em vợ
chồng họ Cao nên thường đến đốt nhang, chiêm bái, cầu cúng.
Một hôm vua Hùng thứ
tư nhân dịp tuần du qua đấy, thấy có miếu thờ, lại được dân sở tại kể
cho nghe câu chuyện thương tâm kia thì vô cùng cảm động. Ngài bảo lấy
trầu cau ăn thử mới khám phá ra một mùi vị thơm cay, nồng ấm, và khi nhổ
nước cốt trầu xuống tảng đá vôi lại thấy hiện ra sắc đỏ tươi như máu,
nhà vua cho là quý bèn truyền lấy giống về trồng, xa gần bắt chước làm
theo. Ngài còn xuống lệnh cho thần dân từ nay sẽ nhất thiết dùng trầu
cau trong các dịp cưới hỏi, và trong các buổi hội họp lớn, nhỏ. Tục ăn
trầu ở nước ta có từ đó.
Trong dân gian vẫn truyền khẩu với nhau: “Miếng
trầu ăn kết làm đôi/Lá trầu là vợ, cau tươi là chồng/Trầu xanh, cau
trắng, chay hồng/Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên...”. Với
người con gái, cau trầu còn được coi là biểu tượng của sự tiếp đón danh
giá. Vì vậy, trong đám hỏi, trong mâm lễ vật nhà trai mang sang cho nhà
gái không thể thiếu cau, trầu. Sau lễ ăn hỏi, nhà gái thường dùng cau
trầu, trà bánh nhà trai đã mang sang, chia ra từng gói nhỏ để làm quà
biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng... như một lời loan báo rằng con gái
trong nhà đã có nơi có chỗ.
Ngày nay
Hiện nay, cuộc sống hiện đại, phong tục cưới xin cũng có nhiều thay đổi nhưng cau trầu vẫn không thể thiếu.
Thông thường quả lễ
gồm buồng cau và trầu đầy ắp, có thể từ vài chục đến vài trăm quả, nhưng
phải là số chẵn, vì quan niệm có đôi có cặp. Cách tính số lượng cau
trầu: 1 quả cau = 2 lá trầu. Quả lễ có thể là 100 cau, 80 cau. Ngoài ra,
hiện nay mọi người đang chuộng buồng cau 105 quả theo cách nói “trăm
năm hạnh phúc” hoặc chọn buồng cau 60 quả theo cách ví von “60 năm cuộc
đời”.
Do hiện nay ít người
còn ăn, và có khi không chia quà nhà trai cho họ hàng, bạn bè nên khay
cau trầu mặc dù vẫn phải có nhưng mang tính ước lệ, chỉ cần 6 miếng trầu
têm và quả cau bổ làm 6.
Theo tục lệ miền Bắc,
trầu phải têm cánh phượng, lá trầu phải là loại trầu cay màu xanh dày
lá, vôi dùng loại vôi Bắc màu trắng và thuốc thường dùng kèm là thuốc
lào, và loại vỏ đỏ. Theo tục lệ miền Nam trầu têm kiểu bánh ú, lá trầu
là loại trầu ngọt (thường dùng trầu Bà Điểm) đi với vôi đỏ, thuốc lá và
vỏ giấy.